Võ Thị Như Mai
TIẾNG VỌNG QUÊ NHÀ TRONG "BẦY CHÀO MÀO LƯU LẠC"
của tác giả NGUYỄN THÁNH NGÃ
Đọc Bầy chào mào lưu lạc, chúng ta như đang bước vào một không gian lắng đọng. Thời gian, hoài niệm và âm thanh tan vào nhau tạo thành bản hòa điệu giữa kỷ niệm và hiện sinh. Bài thơ tái tạo hình ảnh như một sinh thể đang sống, đang hít thở qua nhịp điệu và âm vang ngôn từ. Chính ở đây, người đọc trở thành kẻ đồng sáng tạo, được mời tham dự vào cuộc trở về đầy xúc cảm cùng tác giả, một chuyến đi tìm bà, tìm tuổi thơ, tìm chính cội nguồn tâm hồn mình. Như Rainer Maria Rilke: “Thơ ca không phải là cảm xúc bộc phát; nó là trải nghiệm được sống lại trong tĩnh lặng.” Bài thơ chính là sự sống lại ấy, một thứ ký ức biết hát, biết thở, biết ngân lên trong lòng người đọc. Trong câu hát chị tôi/ có bầy chào mào bay ra từ tia nắng/ về đậu trên cành ổi chín thơm// Câu hát luyến láy,/ hơi thở thổi đám mây ra khỏi buồng ngực/ mặt trời đỏ chói bờ ao. Thơ của Bầy chào mào lưu lạc chọn cách lặng lẽ thấm dần qua ngôn ngữ và âm điệu. Mỗi câu thơ mềm mại, chậm rãi như nhịp võng trưa quê, nơi tiếng e… hèm của bà trở thành nhạc nền của đời sống. Ngôn ngữ ở đây ngân rung, luyến láy, khiến bài thơ vừa như lời kể, vừa như một khúc hát ru cổ xưa. Sức mạnh của thơ là ở chỗ nó có thể khiến người đọc nghe thấy, nghe tiếng chim, tiếng võng, nghe cả nhịp tim của thời gian đang trở mình trong trí nhớ. Ở đó, như Pablo Neruda từng khẳng định, “Thơ sinh ra từ đau thương, từ niềm vui, từ nơi con người chạm đến đất và cảm nhận gió.” Cảm thức về đất, về gió, về thiên nhiên đã khiến bài thơ trở thành một thực thể gắn bó với môi trường sống, với những hơi thở của làng quê Việt.

Những hình ảnh trong bài thơ tưởng như đời thường nhưng lại hàm chứa biểu tượng văn hóa sâu sắc. Bầy chào mào là loài chim trong vườn và là biểu tượng cho sự lưu lạc, cho linh hồn của quê hương đã bay đi cùng thời gian. Cành ổi chín, con cá ngáp, chú cua lười, bờ tre, tiếng cuốc, tất cả đều gợi lại một thế giới nông thôn nguyên sơ, nơi con người và thiên nhiên hòa làm một. Hình ảnh bà tay quệt bã trầu đỏ thắm môi xưa trở thành tâm điểm biểu tượng, kết tinh của ký ức, của sự trìu mến, của một nền văn hóa dân gian đang dần lùi xa. William Wordsworth cho rằng thơ là sự tuôn trào tự nhiên của cảm xúc mạnh mẽ, được thu hồi trong yên lặng. Chính trong sự yên lặng ấy, ta nghe được tiếng vọng của truyền thống, tiếng gọi của quê nhà vang qua từng chữ.
Cấu trúc của bài thơ vận hành theo nhịp cảm xúc. Từng khổ thơ như những nhịp sóng lúc dâng trào, lúc lắng xuống, đan xen giữa hiện tại và quá khứ. Cách ngắt dòng tự nhiên, cách chuyển cảnh mềm mại khiến người đọc cảm thấy như đang xem một cuốn phim chậm, mỗi hình ảnh nối tiếp nhau bằng ánh sáng của hồi tưởng. Thể thơ tự do ở đây là một tuyên ngôn thẩm mỹ: phóng thích ngôn từ để cảm xúc được sống đúng bản chất của nó, không ràng buộc, không biên giới, chỉ còn âm vang và dư hương. Nhà thơ T. S. Eliot nhận định: “Thơ là nơi cá nhân và truyền thống gặp nhau, nơi tiếng nói riêng hòa vào tiếng nói của nhân loại.” Ở Bầy chào mào lưu lạc, tiếng nói riêng ấy ngân dài trong tiếng nói chung của ký ức văn hóa Việt. Điều đặc biệt của Bầy chào mào lưu lạc là tính nguyên bản và sức sống nội tại. Bài thơ mở ra một nỗi nhớ có tính khai sáng, nỗi nhớ làm sống lại. Người viết trở về để tái sinh, để nhận ra cái đẹp trong mất mát, cái ấm trong quên lãng. Chính sự trung thực và sáng tạo trong cảm xúc khiến bài thơ mang sức gợi mở lâu dài: mỗi lần đọc lại, ta đều tìm thấy trong đó một tầng nghĩa mới, một hình ảnh vừa thân quen vừa xa xôi. Và nếu mở rộng hơn, bài thơ còn là một tiếng vọng văn hóa nói về một người bà, một ký ức cá nhân, đi vào nền tảng sâu xa của văn hóa Việt, đời sống thường nhật chan hòa với thiên nhiên, giọng nói, khói trầu, bờ tre, tiếng chim đều là phần của bản sắc dân tộc. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, Bầy chào mào lưu lạc là một sự phản chiếu dịu dàng của quá khứ vào hiện tại giúp người đọc không quên mình đến từ đâu và ký ức, dẫu lưu lạc, vẫn luôn tìm đường trở về.
Bài thơ chủ đạo dường như là tiếng nói rất đặc biệt và nổi trội cho cả tập thơ dù mỗi bài thơ mang một vẻ đẹp riêng. Từ trung tâm cảm xúc ấy, thế giới thơ mở rộng ra, kết nối thành một chỉnh thể liền mạch. Chính qua lăng kính của bài thơ này, người đọc có thể cảm nhận rõ hơn tinh thần chung của toàn tập, một chặng đường thi ca thống nhất trong đa dạng, từng bài thơ như một mảnh ghép góp phần hoàn thiện bức tranh tư tưởng và cảm xúc của tác giả. Tập thơ là một cuộc du hành bắt đầu từ quê hương Quảng Ngãi, lan rộng đến dãy Himalaya, Châu Giang, Gaza…, tất cả được kết nối bởi sợi dây vô hình của nỗi nhớ quê, lòng nhân ái và nhận thức về sự vô thường. Các bài thơ vang vọng lẫn nhau, tạo nên một tổng thể hài hòa, cảm xúc dâng lên như sóng: từ lặng lẽ suy tư, ngỡ ngàng, tiếc nuối, rồi trở về tĩnh lặng chiêm nghiệm. Nguyễn Thánh Ngã khéo léo gắn kết mạch thơ từ chợ Bắc Hà nhộn nhịp đến những dãy núi Himalaya xa xăm khiến nơi chốn trở thành nhân vật sống động và chuyến đi vật lý đồng thời là nơi quá khứ và hiện tại hòa quyện, nỗi nhớ, âm vang của những giọng nói đã vắng cùng trọng lượng lịch sử cá nhân và cộng đồng đều hiện hữu trong từng câu chữ. Qua phà Châu giang/ nước chảy xuôi/ mà gió cũng xuôi/ thổi vào ta/ ngọn lửa// Bùng cháy/ nỗi nhớ em/ áo lụa Tân Châu/ nụ cười thổ cẩm/ đã hớp hồn ta từ thuở đồng bằng (Châu Giang); Thật đáng ngờ/ Nếu ai đó coi thường cái chết của đồng loại/ Đừng xé nát Gaza bởi tín điều/ Hãy để Gaza bình an/ Đừng để Abraham cũng khóc/ Những giọt lệ cuối cùng...( Ôi Gaza); Và, cúi lạy quán quê xưa dưới mái chùa tịnh mật/ Để mỗi long đong tôi lại chạnh thức về/ Tiếng chim hót chau vành tai Bồ Tát/ Đá sỏi lâu đời bỗng hóa cỏ xanh nghe...; (Trở về Thiên Ấn)
Phong cách và hình thức của tập thơ đa dạng, thể hiện sự linh hoạt, tinh tế và giàu nhạc tính của tác giả. Nguyễn Thánh Ngã chuyển đổi giữa những hình ảnh ngắn gọn như haiku và những bài thơ tự do dài hơi, có bài tuôn chảy như dòng nước, có bài đứng vững như bia đá. Anh thử nghiệm với lối kể chuyện, hình ảnh du ký và suy tưởng triết lý cùng âm điệu tự nhiên, đôi khi mộc mạc, lúc thanh cao, lúc huyền bí. Mỗi bài thơ hé lộ một khía cạnh khác nhau: nhà dân tộc học, hành hương, người yêu, triết gia. Sự đa dạng này phản ánh cái nhìn đa chiều về cuộc sống, biến hóa và đa giọng điệu, mang đến trải nghiệm đọc phong phú, liên tục mới mẻ và sâu sắc. Vay chút hương sen/ hôn môi cốm biếc/ vay tiếng còi tàu/ mà nấn ná hư vô... (Hà Nội tường rêu)
Ẩn sâu trong hình ảnh du lịch và chi tiết văn hóa là chiều sâu tư tưởng và sự độc đáo trong triết lý. Núi non, sông suối, đền đài vừa là địa danh và là tấm gương phản chiếu khát khao và sự mong manh của con người. Thiên nhiên và văn hóa, chuyển động và tĩnh lặng, hiện hữu và vắng mặt liên tục được cân nhắc. Nguyễn Thánh Ngã đặt câu hỏi về sự thuộc về, mất mát, trở về, chiêm nghiệm vẻ đẹp sinh ra từ đổ nát, niềm tin tồn tại sau hủy diệt. Mỗi bài thơ mang nhiều tầng nghĩa, mời người đọc suy ngẫm về mối liên hệ giữa bản thân và thế giới, về tính phổ quát của trải nghiệm con người, về vô thường, số phận và ý nghĩa đời sống, tất cả được hòa quyện mượt mà trong hình ảnh và câu chuyện.
Giọng thơ vừa mạnh mẽ vừa chân thật, vừa mang tầm quốc tế lại gắn bó sâu sắc với Việt Nam. Khi viết về Quảng Ngãi, giọng thơ tràn đầy tình cảm hiếu thảo; khi nhắc Tây Nguyên, anh là nhân chứng của sự kiên cường; khi nhắc Gaza hay sông Hằng, giọng thơ chan chứa lòng trắc ẩn. Nguyễn Thánh Ngã viết không để khoe khoang, không phô diễn trí tuệ mà để ghi nhớ và gìn giữ sự thật. Dù đối diện chiến tranh, nghèo đói hay lưu đày, thơ vẫn sáng hy vọng, cân bằng giữa đau khổ và bình an. Sức cộng hưởng cảm xúc mạnh mẽ, từ tiếng cười trẻ nhỏ đến nỗi đau thầm lặng của cộng đồng lưu vong, cho phép người đọc bước vào thế giới rộng lớn và đối diện với phản ứng đạo đức lẫn cảm xúc của chính mình.
Ngôn ngữ và kỹ thuật điêu luyện là điểm sáng khác của tập thơ. Từ ngữ được chọn lọc kỹ lưỡng, vừa chính xác vừa giàu nhạc tính, nhịp thơ tự nhiên. Hình ảnh được vẽ như tranh với màu sắc, âm thanh, mùi hương quyện thành bức tranh sống động. Nhịp điệu linh hoạt, lúc dồn dập, lúc trầm lắng, đôi khi bất ngờ nhưng hợp lý, làm tăng cảm xúc và chiều sâu tư tưởng. Dù xuất phát từ trải nghiệm Việt Nam, các chi tiết về thực vật, phương ngữ, lễ nghi đều mang sức hấp dẫn toàn cầu; cái địa phương không hẹp hòi, cái cá nhân không khép kín. Tập thơ kết hợp âm điệu, vần nội, điệp từ, sự sáng tạo nhịp điệu, và chi tiết sống động, mời gọi độc giả từ mọi nền văn hóa kết nối sâu sắc với trải nghiệm con người qua không gian, ký ức, cảm xúc và tư tưởng.
Đọc Bầy chào mào lưu lạc, người đọc chứng kiến những chặng đường của thi sĩ và được mời bước vào cùng cảm nhận nhịp đập của kỷ niệm hòa vào cảnh vật, nghe nhịp gõ của quá khứ và hiện tại đan quyện trong từng câu chữ. Thơ Nguyễn Thánh Ngã là cây cầu sống động nối liền bản thân với thế giới, cá nhân với cái chung, im lặng với giai điệu. Nó nhắc nhở chúng ta rằng ký ức không bao giờ đứng yên, nỗi nhớ vừa có thể chiếu sáng vừa có thể nhói đau, và ngay cả trong lưu lạc hay mất mát, trái tim vẫn tìm được lối trở về. Mỗi trang thơ đưa người đọc đi cùng thi sĩ, hít thở hương vị chợ quê, cảm nhận gió núi xa, và lắng nghe tiếng vọng dịu dàng của những giọng nói xưa cũ. Tập thơ để lại nhận thức sâu sắc, thơ ca như bầy chào mào bay lạc trong tựa, vừa là người gìn giữ dòng chảy cảm xúc, vừa truyền tải văn hóa, đồng thời dẫn dắt con người trở về với ánh sáng bền lâu của nhân tính.
THE VOICE OF HOMELAND IN THE WANDERING BULBULS
(by Võ Thị Như Mai)
Reading The Wandering Bulbuls is like entering a space where silence holds weight and time folds over itself. Memory, sound, and life blend into one, forming a delicate harmony between recollection and existence. The poem brings life to words. Each image pulses and moves with rhythm, drawing the reader into an intimate participation with the poet. It invites a journey to find a grandmother, a childhood, and the deepest roots of the self. As Rainer Maria Rilke once said, poetry is not the expression of emotion but the recollection of emotion in calmness. This poem embodies that process. It is memory that sings and moves within the reader.
“In my sister’s song, a flock of bulbuls rises from sunlight and lands on the fragrant guava branch. The song trembles. A gentle wind moves the clouds away from her chest. The red sun shines over the pond.” The language unfolds slowly like light passing through a bamboo grove. Each verse sways gently, soft as a hammock in the village at noon. The grandmother’s humming becomes the sound of daily life. Words linger and form a pattern of melody and narrative. The power of this poem comes from its ability to make readers perceive the chirping of birds, the gentle sway of the hammock, and the movement of time within memory. Pablo Neruda once said poetry comes from sorrow, joy, and the moment humans touch the earth and feel the wind. The poem shows that the soil, the air, and the natural world are alive and inseparable from life in the Vietnamese countryside.
The images are simple yet full of cultural significance. The flock of bulbuls, ordinary garden birds, stands as a symbol of wandering and the homeland scattered through time. The ripe guava branch, the lazy crab, the gasping fish, the bamboo fence, and the coucal’s call conjure the rural world where humans and nature coexist. The grandmother wiping red areca from her lips becomes the central symbol of memory, affection, and a folk culture that slowly fades. Wordsworth believed poetry is the natural overflow of strong feeling recollected in calm. In this calm, the poem carries the voice of tradition and the presence of home through each word.
The structure of the poem moves with emotion. Each stanza rises and falls like waves, blending the past and present. The natural breaks between lines and smooth transitions make the reading feel like watching a film in slow motion. Every image shines with the light of memory. The free form of the poem allows words to live freely. Emotion is present without restraint, flowing through language that resonates with openness. T. S. Eliot observed that poetry is the place where the individual voice meets the tradition of mankind. In this poem, the individual voice moves within the currents of Vietnamese cultural memory.
The poem stands at the center of the collection, embodying the main emotional and philosophical theme. From this core, other poems extend, forming a unified vision. The collection traces a journey from Quang Ngai, the poet’s homeland, to the Himalayas, the Chau River, and Gaza. All are connected by memory, compassion, and the awareness of impermanence. The poems relate to each other, rising and falling in waves of emotion, from reflection to wonder, from regret to calm contemplation.
Nguyen Thanh Nga’s poetry expands from the personal to the universal. From the lively market of Bac Ha to the distant Himalayas, places become living presences. The physical journey merges past and present, blending memory with history, and the traces of those who are absent remain vivid in every line. “Across the Châu River / water flows south / and so does the wind / moving into me / a flame // It rises / the memory of you / your Tân Châu silk / your brocade smile / that captured me since the delta days”. (Châu Giang); “Beware those who scorn the death of others / Do not tear Gaza apart by creed / Let Gaza rest in peace / Lest Abraham shed his final tears.” (Oh Gaza); “And, bowing before the old village inn beneath the quiet temple roof / I am moved to awaken to memories of wandering / The birdsong sharp at the Bodhisattva’s ear / Ancient stones suddenly turn to green grass beneath my hearing…”(Returning to Thien An)
The collection shows wide stylistic range. It moves between concise imagery and long flowing verses. Some poems flow like streams. Others remain solid and firm. The poet experiments with storytelling, travel imagery, philosophical reflection, and the sacred and everyday. Each poem offers a different persona: ethnographer, pilgrim, lover, philosopher. This diversity creates a multi-layered vision of life.
Beneath travel and cultural detail lies deep thought. Mountains, rivers, and temples are not just places but mirrors of human longing and vulnerability. Nature and culture, motion and stillness, presence and absence coexist. Nguyen Thanh Nga explores belonging, loss, and the return. He shows beauty in ruin and faith in survival. Each poem invites the reader to reflect on human experience, life’s impermanence, and the connection between self and world.
His voice is intimate yet universal, deeply Vietnamese but open to the world. Writing of Quang Ngai, he is tender and filial. Writing of the Central Highlands, he witnesses resilience. Writing of Gaza or the Ganges, he shows compassion. He writes to preserve truth rather than to display intellect. In the face of war, exile, and poverty, his poetry remains bright and steady, balancing suffering and calm.
Language and craft are equally remarkable. Words are carefully chosen, musical, and precise. Images combine sound, color, and scent into vivid scenes. The rhythm shifts, sometimes quick, sometimes calm, giving intensity and depth. Though rooted in Vietnam, the poems have universal appeal. The personal does not isolate. The local does not confine. Sound, repetition, and cadence create a tapestry that allows readers from any culture to connect with memory, emotion, and thought.
Reading The Wandering Bulbuls is a journey alongside the poet. One senses the markets, the mountains, and the quiet presence of voices from long ago. Nguyen Thanh Nga’s poetry forms a bridge linking self with world, the individual with the collective, silence with melody, past with lingering memory. Memory never stands still. Longing can enlighten or wound. Even in loss or exile, the human heart finds its path home. This collection leaves readers with lasting insight. Poetry, like the wandering bulbuls, carries feeling across space, preserves culture, and guides humanity toward lasting light and understanding.
Vo Thi Nhu Mai was born in Vietnam and is currently an educator based in Australia. She has published several poetry collections that reflect her deep sensitivity to life, memory, and the landscapes of both her homeland and adopted country. Her work often explores themes of belonging, transformation, and the quiet resilience of the human spirit.